Scholar Hub/Chủ đề/#điều tra viên/
Điều tra viên là một người được thuê hoặc được bổ nhiệm để tiến hành các hoạt động điều tra, thu thập thông tin và tìm hiểu về một vụ án, một sự việc hay một vấ...
Điều tra viên là một người được thuê hoặc được bổ nhiệm để tiến hành các hoạt động điều tra, thu thập thông tin và tìm hiểu về một vụ án, một sự việc hay một vấn đề cụ thể. Công việc của điều tra viên thường bao gồm điều tra tội phạm, thu thập chứng cứ, ngụy tạo danh tính, xác minh thông tin và làm việc với các bên liên quan như nhân chứng, nhà chức trách hoặc khách hàng. Điều tra viên có thể làm việc cho cơ quan thực thi pháp luật, công ty tư vấn an ninh hay hoạt động độc lập.
Điều tra viên là những chuyên gia được đào tạo để thu thập thông tin, điều tra sự việc và tìm hiểu về một vụ án, một tình huống hoặc một vấn đề cụ thể. Công việc của họ bao gồm:
1. Thu thập thông tin: Điều tra viên thường phải thu thập dữ liệu và thông tin từ nhiều nguồn khác nhau như cơ sở dữ liệu công cộng, hồ sơ, tài liệu và hoặc tìm kiếm thông qua các cuộc phỏng vấn với nhân chứng hoặc những người có liên quan.
2. Điều tra tội phạm: Một phần lớn công việc của điều tra viên liên quan đến việc điều tra các hoạt động tội phạm, bao gồm tội phạm về ma túy, tội phạm kinh tế, tội phạm chống lại nhà nước và tội phạm bất đồng chính kiến. Họ xác định các tình tiết, thu thập chứng cứ, giám sát và theo dõi các đối tượng nghi phạm và thậm chí có thể tiến hành các cuộc kiểm tra và bắt giữ theo quy định pháp luật.
3. Xác minh thông tin: Điều tra viên phải xác minh tính xác thực của thông tin, chứng cứ hoặc các sự kiện được cung cấp. Họ phải làm việc với các bên liên quan, sử dụng các phương pháp và công nghệ để kiểm tra sự chính xác của thông tin và đảm bảo tính tin cậy của chứng cứ.
4. Ngụy tạo danh tính: Đôi khi, để tiến hành điều tra một cách hiệu quả, điều tra viên có thể cần ngụy tạo danh tính để tìm hiểu thông tin từ các nguồn nội bộ hoặc tiếp cận mục tiêu một cách không nghi ngờ.
5. Làm việc với các bên liên quan: Điều tra viên có thể phải làm việc với nhiều bên liên quan khác nhau như nhân chứng, bị can, nhà chức trách, luật sư và các bên có quyền quyết định trong quá trình điều tra.
6. Lập báo cáo: Sau khi hoàn thành điều tra, điều tra viên thường phải viết báo cáo chi tiết với các phân tích và đánh giá về kết quả điều tra. Báo cáo này có thể được sử dụng trong quá trình pháp y hoặc bởi các bên liên quan trong việc đưa ra quyết định hoặc hành động tiếp theo.
Điều tra viên có thể làm việc cho cơ quan thực thi pháp luật như cảnh sát, FBI hoặc Cục Điều tra Liên bang, công ty tư vấn an ninh, công ty đảm bảo an ninh, hoặc có thể hoạt động độc lập như một nhà điều tra tư.
Phiếu điều tra động lực học khoa học II: Xác thực với sinh viên chuyên ngành và không chuyên ngành Dịch bởi AI Journal of Research in Science Teaching - Tập 48 Số 10 - Trang 1159-1176 - 2011
Tóm tắtTừ góc độ lý thuyết nhận thức xã hội, động lực học tập khoa học của sinh viên trong các khóa học đại học đã được kiểm tra. Các sinh viên - 367 chuyên ngành khoa học và 313 không chuyên ngành khoa học - đã trả lời Phiếu Điều Tra Động Lực Học Khoa Học II, đánh giá năm thành phần động lực: động lực nội tại, tự quyết, tự tin, động lực nghề nghiệp và động lực điểm số. Các phân tích yếu tố khám phá và xác nhận đã cung cấp bằng chứng về tính hợp lệ của cấu trúc phiếu điều tra. Các thành phần động lực, đặc biệt là tự tin, có liên quan đến điểm trung bình học tập khoa học của sinh viên tại trường đại học. Các sinh viên chuyên ngành khoa học có điểm cao hơn so với các sinh viên không chuyên ngành ở tất cả các thành phần động lực. Trong cả sinh viên chuyên ngành khoa học và không chuyên ngành khoa học, nam giới có tự tin cao hơn phụ nữ, và phụ nữ có tự quyết cao hơn nam giới. Các phát hiện cho thấy phiếu điều tra là một công cụ hợp lệ và hiệu quả để đánh giá các thành phần động lực của sinh viên trong việc học khoa học ở các khóa học đại học, và rằng các thành phần này đóng vai trò trong thành tích học tập khoa học của sinh viên. © 2011 Wiley Periodicals, Inc. J Res Sci Teach 48: 1159–1176, 2011
Cùng xây dựng khoa học dựa trên điều tra với giáo viên: Nghiên cứu thiết yếu cho cải cách bền vững Dịch bởi AI Journal of Research in Science Teaching - Tập 38 Số 6 - Trang 631-645 - 2001
Tóm tắtTrong bài viết này, chúng tôi đưa ra một chương trình nghiên cứu tiềm năng cho việc giảng dạy và học tập khoa học dưới hình thức điều tra như một phần của chuỗi JRST về cải cách trong giáo dục khoa học. Dựa trên các khung lý thuyết về xây dựng nhận thức và xã hội văn hóa, các mô hình văn hóa về ý nghĩa, chức năng đối thoại của ngôn ngữ, và các mô hình chuyển đổi trong giáo dục giáo viên, chúng tôi đề xuất rằng cần có nhiều nghiên cứu hơn trong các lĩnh vực niềm tin, kiến thức và thực hành của giáo viên về khoa học dựa trên điều tra, cũng như việc học tập của học sinh. Vì hiệu quả của các nỗ lực cải cách phần lớn phụ thuộc vào giáo viên, tiếng nói của họ cần được đưa vào thiết kế và thực hiện chương trình giảng dạy dựa trên điều tra. Khi chúng tôi xem xét tài liệu và đặt ra các câu hỏi nghiên cứu trong tương lai, chúng tôi đề xuất rằng cần dành sự chú ý đặc biệt cho nghiên cứu về điều tra trong các lớp học đa dạng, và các phương thức giảng dạy dựa trên điều tra do giáo viên thiết kế. © 2001 John Wiley & Sons, Inc. J Res Sci Teach 38: 631–645, 2001
Trao đổi hồng cầu tự động như một phương pháp điều trị bổ sung cho sốt rét nặng do Plasmodium falciparum tại Bệnh viện Tổng hợp Vienna, Áo: một nghiên cứu nhóm hồi cứu Dịch bởi AI Malaria Journal - - 2012
Tóm tắt
Thông tin nền
Sốt rét nặng do falciparum liên quan đến tỷ lệ tử vong cao, bất chấp việc điều trị bằng thuốc chống sốt rét thích hợp. Do khả năng sống sót tổng thể liên quan đến khối lượng ký sinh trùng toàn bộ, truyền máu thay thế đã được đề xuất như một phương pháp tiềm năng để giảm nhanh tình trạng ký sinh trùng ngoại vi. Tuy nhiên, bằng chứng hiện tại cho thấy phương pháp điều trị này có thể không cải thiện kết quả. Trao đổi hồng cầu tự động (còn được gọi là “erythrocytapheresis”) đã được khuyến nghị như một phương pháp thay thế để loại bỏ nhanh ký sinh trùng từ máu lưu thông mà không ảnh hưởng đến thể tích và tình trạng điện giải của bệnh nhân. Tuy nhiên, chỉ có bằng chứng hạn chế từ các báo cáo ca và các loạt ca cho phương pháp điều trị bổ sung này. Nghiên cứu nhóm hồi cứu này mô tả việc sử dụng trao đổi hồng cầu tự động để điều trị sốt rét nặng tại Đại học Y Vienna.
#sốt rét nặng #Plasmodium falciparum #trao đổi hồng cầu tự động #nghiên cứu hồi cứu #điều trị bổ sung
Cố định bằng vít nội tuỷ kết hợp ghép xương tự thân để điều trị gãy xương đốt bàn chân thứ năm gần thân xương ở vận động viên: một loạt các trường hợp Dịch bởi AI Sports Medicine, Arthroscopy, Rehabilitation, Therapy & Technology - Tập 4 Số 1 - 2012
Tóm tắtĐặt vấn đềCác trường hợp liền xương chậm hoặc gãy lại không phải là hiếm gặp sau khi điều trị phẫu thuật cho các bệnh nhân gãy xương đốt bàn chân thứ năm gần thân xương. Cố định bằng vít nội tuỷ kết hợp ghép xương tự thân có tiềm năng để giải quyết vấn đề này. Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá kết quả của phương pháp này.
Phương phápTác giả đã tiến hành xem xét hồi cứu 15 vận động viên đã trải qua điều trị phẫu thuật cho gãy xương đốt bàn chân thứ năm gần thân xương. Phẫu thuật bao gồm việc cố định bằng vít xốp có ống nội tuỷ sau khi nạo ổ gãy, tiếp theo là ghép xương tự thân. Sau phẫu thuật, các bệnh nhân giữ chế độ không chịu lực trong bột hoặc nẹp trong hai tuần và không cần giữ cố định thêm hai tuần nữa. Tất cả bệnh nhân được phép chịu lực cách đầy đủ sau sáu tuần phẫu thuật. Chạy được cho phép sau khi có hình ảnh X-quang cho thấy xương đã liền, và việc trở lại thi đấu được chấp thuận sau khi tăng dần cường độ vận động.
#Gãy xương đốt bàn chân thứ năm #cố định nội tuỷ #ghép xương tự thân #thể thao #điều trị phẫu thuật
Thực trạng tuân thủ điều trị của người bệnh đái tháo đường type 2 ngoại trú tại bệnh viện tỉnh Quảng Ninh năm 2016Mục tiêu: Mô tả thực trạng tuân thủ điều trị của người bệnh ĐTĐ type 2 ngoại trú tại Bệnh viện tỉnh Quảng Ninh năm 2016.
Phương pháp: nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 198 NB ĐTĐ type 2 ngoại trú tại Bệnh viện tỉnh Quảng Ninh từ tháng 4 đến tháng 10 năm 2016.
Kết quả: tỉ lệ người bệnh có kiến thức đạt về bệnh và tuân thủ điều trị chiếm 66,7%, tuy vậy vẫn còn đến 33,3% có kiến thức chưa đạt. Tỷ lệ NB tuân thủ chế độ ăn: 58,1%; hoạt động thể lực: 66,7%; thuốc: 69,2% ; kiểm tra đường huyết tại nhà và tái khám định kì: 26,8%. TTĐT cả 4 yếu tố là 5,1%.
Kết luận: Tỉ lệ tuân thủ điều trị ngoại trú của người bệnh ĐTĐ type 2 tại Bệnh viện tỉnh Quảng Ninh còn ở mức thấp. Vì vậy cần có những biện pháp để hỗ trợ để người bệnh tuân thủ điều trị tốt hơn trong thời gian tới nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống.
#Đái tháo đường type 2; Tuân thủ điều trị
Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ về phòng ngừa chuẩn của sinh viên điều dưỡng Trường Đại học Y khoa Vinh năm 2018.Mục tiêu: Mô tả thực trạng kiến thức, thái độ về phòng ngừa chuẩn và tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ phòng ngừa chuẩn của sinh viên điều dưỡng Trường Đại học Y khoa Vinh, năm 2018.
Phương pháp: Áp dụng phương pháp nghiên cứu định lượng (mô tả cắt ngang có phân tích) kết hợp định tính trên 337 sinh viên đại học điều dưỡng năm thứ 2 Trường Đại học Y khoa Vinh.
Kết quả: Có 5,9% sinh viên cử nhân điều dưỡng có kiến thức đạt về phòng ngừa chuẩn. Có 65,9% sinh viên có thái độ tích cực về phòng ngừa chuẩn, 33,2% có thái độ trung tính và chỉ có 0,9% có thái độ tiêu cực trong phòng ngừa chuẩn. Các yếu tố ảnh hưởng đến kiến thức, thái độ về PNC. Sinh viên nữ có thái độ tích cực về PNC cao gấp 4,1 lần so với sinh viên nam với CI 95% (1,7 - 7,9). Sinh viên có thái độ tích cực thì có kiến thức về vệ sinh tay cao gấp 2,7 lần (95% CI: 1,3 – 3,5), kiến thức về tiêm an toàn và phòng ngừa tổn thương do vật sắc nhọn cao gấp 4,6 lần, kiến thức về vệ sinh ho và hô hấp cao gấp 3,7 lần so với sinh viên có thái độ chưa tích cực với CI 95% (1,8 – 7,2).
Kết luận: Tỷ lệ sinh viên điều dưỡng có kiến thức đúng và thái độ tích cực về phòng ngừa chuẩn còn thấp. Sinh viên nữ có thái độ tích cực về phòng ngừa chuẩn cao hơn sinh viên nam.
#Phòng ngừa chuẩn #sinh viên điều dưỡng
Thực trạng stress của sinh viên điều dưỡng Trường Cao đẳng Y tế Hải Phòng năm 2020Stress là một vấn đề sức khỏe tâm thần phổ biến. Nghiên cứu được thực hiện tại Trường Cao đẳng Y tế Hải Phòng năm 2020 với mục tiêu mô tả thực trạng stress của sinh viên điều dưỡng. Nghiên cứu áp dụng thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 300 sinh viên sử dụng thang Depression Anxiety Stress Scale – 21 (DASS - 21) và thang Stressors in Nursing Students (SINS). Kết quả nghiên cứu cho thấy có 47,3% sinh viên mắc stress, trong đó các mức độ stress nhẹ, vừa, nặng, rất nặng lần lượt là 15,3%, 19%, 8,7% và 4,3%. Sinh viên điều dưỡng năm thứ hai có tỉ lệ mắc stress cao nhất (51%), sau đó là sinh viên năm thứ ba (47%) và thấp nhất là sinh viên năm thứ nhất (44%). Sinh viên cảm nhận stress nhiều nhất là do vấn đề tài chính, tiếp theo là vấn đề học tập, môi trường thực tập lâm sàng và vấn đề cá nhân. Nhà trường, gia đình và xã hội nên có các biện pháp giúp giảm tình trạng stress ở sinh viên điều dưỡng.
#DASS - 21 #SINS #stress #sinh viên điều dưỡng
THỰC TRẠNG TRẦM CẢM, LO ÂU, STRESS Ở SINH VIÊN CAO ĐẲNG ĐIỀU DƯỠNG CHÍNH QUY TRƯỜNG CAO ĐẲNG Y TẾ BẠCH MAI VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN NĂM 2021Mục tiêu:
- So sánh tỷ lệ hiện mắc trầm cảm, lo âu và stress ở sinh viên cao đẳng điều dưỡng chính quy các khóa học của trường Cao đẳng Y tế Bạch Mai năm 2021.
- Phân tích một số yếu tố liên quan đến trầm cảm, lo âu và stress của sinh viên cao đẳng điều dưỡng chính quy trường Cao đẳng Y tế Bạch Mai năm 2021.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên 488 sinh viên cao đẳng điều dưỡng chính quy, trường Cao đẳng Y tế Bạch Mai, phỏng vấn bằng thang đo DASS- 21.
Kết quả và kết luận: Tỷ lệ sinh viên mắc trầm cảm, lo âu, stress lần lượt là 8,2%; 10,1%; 4,5%. Tỷ lệ trầm cảm, lo âu, stress cao nhất ở năm thứ nhất. Tỷ lệ trầm cảm, lo âu, stress ở mức độ nhẹ là cao nhất.
Các yếu tố có khả năng là nguy cơ của trầm cảm, lo âu và stress bao gồm: Sinh viên năm đầu; kinh tế gia đình khó khăn; học lực trung bình hoặc yếu; không hài lòng về ngành học; có uống rượu bia,hút thuốc lá/thuốc lào; kết thúc một mối quan hệ gần gũi (tình bạn); có bất đồng với cha mẹ.
#Trầm cảm #lo âu #stress #sinh viên #điều dưỡng.
Thực trạng tuân thủ điều trị của người bệnh đái tháo đường tuýp 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Tuệ TĩnhMục tiêu: mô tả thực trạng tuân thủ điều trị của người bệnh đái tháo đường type 2 đang điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Tuệ Tĩnh.
Đối tượng và phương pháp: Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện từ tháng 02/2022 đến tháng 12/2022 tại Bệnh viện Tuệ Tĩnh. Đối tượng nghiên cứu là 200 người bệnh > 18 tuổi, được chẩn đoán đái tháo đường tuýp 2 đang điều trị ngoại trú, có khả năng giao tiếp đủ để trả lời phỏng vấn và đồng ý tham gia nghiên cứu. Sử dụng phương pháp tự điền để thu thập thông nghiên cứu.
Kết quả: Cụ thể, tỷ lệ NB thực hành tuân thủ cả 04 chế độ chỉ chiếm tỷ lệ 29,5%. Trong đó tỷ lệ NB tuân thủ chế độ dinh dưỡng chiếm tỷ lệ cao nhất 64%; có 62,5% NB tuân thủ hoạt động thể lực. Tỷ lệ NB tuân thủ xét nghiệm đường huyết và tái khám định kì chiếm tỷ lệ thấp nhất chỉ có 22,5%.
Kết luận: tỷ lệ người bệnh tuân thủ điều trị còn thấp, do vậy cần nghiên cứu các giải pháp để giúp người bệnh tuân thủ điều trị tốt hơn.
#Tuân thủ điều trị #đái tháo đường #điều trị ngoại trú
THỰC TRẠNG LOÉT ÁP LỰC VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN NGƯỜI BỆNH HÔN MÊ TẠI KHOA HỒI SỨC TÍCH CỰC VÀ CHỐNG ĐỘC BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG ƯƠNG CẦN THƠNghiên cứu mô tả tiến cứu thực hiện tại Khoa hồi sức tích cực và chống độc BV Đa Khoa Trung ương Cần Thơ từ tháng 10/2020 đến tháng 03/2021 trên 185 người bệnh hôn mê. Mục tiêu là (1) Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, tình trạng loét của người bệnh hôn mê tại Khoa hồi sức tích cực và chống độc Bệnh viện Đa Khoa Trung ương Cần Thơ (2) Phân tích kết quả chăm sóc người bệnh và một số yếu tố liên quan. Kết quả cho thấy người bệnh hôn mê có số ngày nằm viện trung bình là: 8,48±1,61, tỷ lệ người bệnh có loét chiếm 26,5%, không loét 73,5%, có một vết loét chiếm 32,4%, có 2 vết loét chỉ có 4,3%, loét độ I chiếm 56,6% và loét độ II là 43,4%. Về hoạt động chăm sóc vết loét trong 7 ngày: ≤ 1lần/ngày chiếm tỷ lệ cao từ 84,3% đến 89.2%. Về thay đổi tư thế và xoa bóp vùng tỳ đè ≥ 3lần/ngày chiếm tỷ lệ cao từ 87,3% đến 96.2%. Kết quả cho thấy, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm người bệnh có BMI bình thường và BMI béo phì với kết quả chăm sóc (p< 0,05), giữa người bệnh có bệnh bị đái tháo đường và người bệnh không bị bệnh đái tháo đường với kết quả chăm sóc (p< 0,05), giữa người bệnh có thời gian nằm viện > 7 ngày và ≤ 7 ngày với kết quả chăm sóc (p < 0,05), giữa người bệnh có sử dụng nệm hơi và không sử dụng nệm hơi với kết quả chăm sóc, (p<0,05). Tuy nhiên, chưa tìm thấy sự khác biệt giữa nam và nữ với với kết quả chăm sóc p >0,05.
#bệnh nhân hôn mê #loét tỳ #vết loét #độ loét #chăm sóc #điều dưỡng